Tuesday, November 8, 2011

Bài 2 THIỀN – ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ


(Thầy Thích Quảng Sự - trụ trì chùa Phổ Đà, Hàm Tân, Bình Thuận)
Hôm nay là ngày học thứ 2. Nếu thầy không nói rằng: ngày học này có tính quyết định, thì thực sự nó cực kỳ quan trọng cho tư duy tiếp nhận và thực tập trải nghiệm về Thiền học của chúng ta trong hiện tại và về sau. Chương trình tuần tự các buổi học các anh chị đã có, bây giờ thầy sẽ trình bày Thiền - điều kiện cần và đủ.
Thưa các anh chị, tựa đề mang tên như vậy, nghĩa là trước khi các anh chị thực hành Thiền Hiện Đại, thì các điều kiện mà các anh chị cần phải có là gì? Và hoàn thiện hơn nữa, các điều kiện đủ phải có là gì?
Điều kiện cần và đủ để thực nghiệm Thiền Hiện Đại là những hành trang, tư lương mà các anh chị nhất định phải có trước khi bước vào ngưỡng cửa hành trì. Đây là vấn đề tiên thiên, mà nếu ko có nó, chúng ta miễn bàn về việc thành tựu thực tập Thiền học sau này. Tiên đề mà sai, thì cho dù lập luận logic thế nào và thực hành siêng năng đến đâu..., tất cả đều trở nên sai lệch và vô nghĩa. Thầy nói như vậy nhằm gửi bức thông điệp đến các anh chị về  tầm quan trọng của nó trong buổi học hôm nay; một sự thật được hiểu và nguyện hành như thật từ thân tâm các anh chị.
A.    Điều kiện cần (ngoại cảnh, thân và tâm)
1.      Ngoại cảnh 
Bản thân chúng ta, con người và vạn vật xung quanh tương tác với nhau thuận hoặc nghịch, trực tiếp hoặc gián tiếp tạo thành một môi trường sinh hóa vạn hữu cộng sinh. Thế giới ngoại tại, nói cách khác là vạn vật ảnh hưởng nhất định đến tư duy, hành động và sinh hoạt của mỗi chúng ta. Các anh chị cũng đã thấy và biết: tất cả các thành phố lớn, khu dân cư đông đúc trên thế giới hầu hết đều nằm dọc theo các bờ sông, ven biển, nơi cây cỏ tốt tươi... Đó là sự tương thích giữa cuộc sống số đông con người và cảnh vật mà gạch nối nổi bật giữa cặp phạm trù này là gió và nước (phong thủy)…Ở đây, thầy và các anh chị khảo sát 4 mục chính về ngoại cảnh nhằm chủ động tạo thuận duyên cho thực tập Thiền.
a.      Khí hậu
Thưa các anh chị, dưỡng khí không thể thiếu cho sức khỏe con người. Dưỡng khí tốt hay không tốt, thanh sạch hay ô nhiễm một phần không nhỏ là do con người chúng ta gây ra. Tùy đặc tính cơ địa, cấu trúc cơ thể, thích nghi môi trường hay thói quen sinh hoạt  mà chúng ta có thể sinh sống phù hợp với khí hậu lạnh, ôn hòa hoặc nóng; thích hợp vùng cao hay thấp, thành thị hoặc nông thôn; gần gũi núi rừng hay vùng ven sông biển, vùng gần sa mạc hay khu dân cư tập trung…Các anh chị tự chọn cho mình một sinh khí trong cuộc sống, điều này trợ duyên đắc lực cho sự dưỡng sinh và Thiền tập. Đối với những trường hợp ít cho phép chủ động, thì chúng ta chọn cho mình một giải pháp thích hợp nhất. Nghĩa là, nếu khí hậu quá nóng thì các anh chị phải chọn một nơi có cây cối mát mẻ, ẩm ướt, có nước…; nếu khí hậu quá lạnh chúng ta phải mặc áo ấm, làm sao giữ ấm cổ, nhất là huyệt thiên đột (giữa vành dưới yết hầu). Tốt nhất hãy chọn cho mình nơi tụ khí, không nên tán khí; thoáng khí không nên tù khí, sinh khí không nên tử khí. Đừng để khí thổi trực tiếp vào cơ thể hoặc để cơ thể chống chọi với khí hậu thiên nhiên khắc nghiệt. Ngoại trừ thói quen hiếu kỳ, sức lực chịu đựng được một cách thoải mái hay sở thích, dù vậy, vẫn rất khó cho chúng ta gia công dụng hạnh được an tịnh. Sự tương tác thuận nghịch của không khí với thân thể chúng ta như vậy, nên việc chọn thuận khí thích hợp cho mình là vấn đề thầy mong các anh chị cần quan tâm.
b.      Màu sắc
Màu sắc là tính đặc trưng mỹ thuật của cảnh vật, nó cũng biểu thị tính năng hoạt dụng của sự vật hiện tượng. Trong cuộc sống con người, ảnh hưởng của màu sắc quả là không nhỏ. Đạo học cũng vậy, dù không trực tiếp chủ động ảnh hưởng tâm tư con người, nhưng sắc màu dễ tạo sự cảm nhận và như có lực hấp dẫn chúng ta. Đối với người Thiền tập, sắc màu trực tiếp hoặc gián tiếp đánh lừa tư duy chúng ta. Để điều hòa gam màu nhằm tạo cảm giác nhẹ nhàng cho người thực nghiệm Thiền học, nếu các anh chị hợp màu đỏ, không nên chọn quá đỏ thắm; màu vàng không nên quá vàng tươi, màu xanh không nên quá xanh um, màu đen không quá đen thui, màu trắng không quá trắng toát. Màu sắc thích hợp tạo không khí và khung cảnh dễ chịu cho chúng ta. Vì vậy, đỏ thì đỏ nhu thôi, vàng thì nên vàng nhạt, xanh chọn xanh da trời, hoặc xanh lơ, đen thì nên pha giữa màu trắng với đen điểm xuyết vừa phải cho dễ chịu. Trắng cũng vậy, nên pha lẫn màu vàng, xanh, đỏ để dịu bớt đi. Sắc màu mạnh mẽ quá, dễ tạo cho các anh chị một sự dao động tâm tư, tác động mạnh vào mắt dễ đưa các anh chị chấp trước cảnh vật. Vậy nên chọn màu sắc nhẹ nhàng, nhu nhuyến, thư thái cho mình trong nhà, trong phòng, tại nơi làm việc, nơi ở… là điều mà chúng ta chủ động được trong tình huống có thể chủ động. Trong trường hợp bị động, chúng ta có phương pháp quán chiếu. Thầy sẽ đề cập trong những bài sau. Đó là về màu sắc chúng ta được quyền chọn thích hợp cho mình.
c.      Địa điểm
Địa điểm ở đây chỉ cho nhà, khu vực các anh chị ăn ở, sinh hoạt và làm việc. Địa điểm thích hợp với tâm tư, sở thích và tạo thuận duyên cho Thiền tập là nơi mà sự kết hợp hài hòa giữa không gian, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, gió và nước. Tất cả các yếu tố đó dung hòa tạo một khung cảnh nhẹ nhàng, thoải mái, trong lành. Chủ động chọn nơi ít xao động âm thanh hoặc nơi yên tĩnh, anh chị sẽ Thiền tập có chiều sâu; màu sắc và ánh sáng hòa dịu dễ lắng đọng tâm tư. Chủ động chọn hướng gió cho mình, trong căn nhà hoặc trong khu vực sinh hoạt, các anh chị phải nhận định rằng gió thổi về hướng nào. Khi ngồi Thiền, đi Thiền, đứng Thiền… chúng ta không nên để gió áp thẳng vào trước mặt, hai bên tai hoặc áp thẳng từ sau lưng. Nói một cách cụ thể, chọn địa điểm cho mình chúng ta không chọn nơi gió trực tiếp thổi, không chọn nơi gió mạnh, không chọn chỗ quá ẩm thấp bị tù không khí, không nên chọn nơi tán khí quá trống trải, không chọn nơi tử khí quá u khuất sẽ nguy hiểm đến sinh lực chúng ta.
d.      Trạng thái
Ở đây, nó chỉ cho trạng thái cảnh vật động tĩnh tương tác tâm tư. Trạng thái có thể động, có thể tĩnh; có thể vừa động vừa tĩnh, có thể không động không tĩnh…Các anh chị sinh sống thường ngày quen với cảnh động thì chúng ta nên chọn cho mình một trạng thái tĩnh để đối trị điều hòa cơ thể cũng như tâm tư. Các anh chị sinh sống thường ngày quen với cảnh tĩnh thì chúng ta chọn cho mình một trạng thái động vừa phải để điều hòa nhịp sống tinh thần. Các anh chị sinh sống thường ngày quen với cảnh vừa động vừa tĩnh thì chúng ta chọn cho mình một trạng thái động tĩnh nhẹ nhàng để dễ dàng hòa nhịp theo thói quen hàng ngày. Các anh chị sinh sống thường ngày quen với cảnh không động không tĩnh, nghĩa là trạng thái động mà không phải động, tĩnh mà không phải tĩnh thì chúng ta chọn cho mình một trạng thái  cảnh vật nhẹ nhàng êm dịu tương thích với cảnh thường nhật…Trên đây là những trạng thái cảnh mà chúng ta chủ động nếu có thể. Thầy nhắc lại, nếu quá động trong công việc hàng ngày thì nên tĩnh ở cảnh Thiền tập, nếu quá tĩnh trong sinh hoạt hàng ngày thì nên động nhẹ để tâm tư khỏi u uất, hôn trầm. Thói quen và sở thích cũng rất quan trọng. Nếu các anh chị thường nghe nhạc hàng ngày thì chọn nghe một vài bản nhạc nền nhẹ nhàng cho trạng thái Thiền tập, không bắt buộc phải chọn trạng thái khung cảnh hoàn toàn tĩnh. Đây là một nét đặc biệt mang tính phổ cập của Thiền Hiện Đại, nhưng chúng ta phải biết đây là phương pháp đối trị nhất thời để dẫn dắt tâm tư, dần dần tương thích với sự an tịnh, Thiền không chủ trương nghe nhạc. Cũng vậy, nếu thường ngày chúng ta sinh hoạt trong cảnh tĩnh lặng nhiều, mà sở thích chúng ta là tĩnh thì việc chọn cho mình một trạng thái tĩnh cũng tốt, nhưng quá tĩnh thì sinh hôn trầm hoặc dễ u uất. Phần này thầy sẽ trình bày phương pháp quán đối trị trong những bài sau. Cốt yếu của phương pháp Thiền Hiện Đại là đem lại sự an tịnh tỉnh giác cho các anh chị trong từng động thái diễn ra hàng ngày từng giây phút trong hiện tại từ: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, nói chuyện, học tập, làm việc v.v…
Nói tóm lại về ngoại cảnh các anh chị phải chọn ngoại cảnh thích hợp cho mình: về khí hậu, màu sắc, ánh sáng, trạng thái động tĩnh, và địa cục (tức là nhà hoặc khu vực mình ở).
2.      Thân
Thân thể sống là sự cấu thành tổng hợp từ vật chất, dung hòa sinh hóa và tương ứng nghiệp thức của mỗi hữu tình chúng sanh. Thân thể thích nghi với cảnh vật, mạnh mẽ về thể chất, ổn định bảo hòa tứ đại, cân bằng sinh vật lý sẽ thuận duyên nhất định cho chúng ta tư duy, lý luận và trải nghiệm dụng hạnh Thiền. Điều đó là chắc chắn. Để trưởng dưỡng thân thể được như vậy, thầy mong rằng các anh chị phải khảo sát và sinh sống tương ưng 4 vấn đề sau đây.
a.      Chế độ ăn uống
Thức ăn thức uống dành riêng cho mỗi chúng ta và cộng đồng người phải được tinh sạch là tốt nhất. Tất nhiên, các anh chị đã có một chế độ ẩm thực cũng như văn hóa ẩm thực cho mình. Chế độ chất và lượng thực phẩm cho thanh niên, trung niên hay lão niên điều độ và phù hợp cơ thể, hấp thụ trao đổi chất tốt sẽ góp phần điều hòa thân tâm khi Thiền tập. Sự thích hợp thực phẩm hàn nhiệt, đạm, béo, năng lượng, vitamin và khoáng tố…; điều độ và phù hợp cơ thể, hấp thụ trao đổi chất tốt sẽ duy trì và tăng trưởng thời lượng định tĩnh tâm hồn khi dụng hành Thiền tập. Thầy nghĩ rằng các anh chị chắc chắn đã có một chọn lựa tốt về chế độ ăn uống cho mình. Ở đây, thầy chỉ nói một vài điều mang tính tâm lý tác động thân bởi ẩm thực. Nếu sức chúng ta dùng thực phẩm được 100%, thì chúng ta chỉ nên dùng 70%. Không nên ăn trước khi tọa Thiền hay ngọa Thiền ít nhất 3 giờ. Không nên ăn một món quá nhiều (chấp trước sở thích). Không nên vì tinh thần quá vui dẫn đến tình thân mời mọc hoặc nài nỉ mà ăn thêm. Mục đích ăn uống là để cơ thể khỏe mạnh tránh sự suy nhược, nhưng ăn uống quá nhiều, sử dụng bất hợp pháp sẽ dẫn đến gánh nặng cho cơ thể và tâm tư. Ăn uống điều độ, chủ động trong việc sử dụng thực phẩm sẽ giúp chúng ta khỏe mạnh và tạo thuận duyên rất nhiều cho cuộc sống nhất là tư duy Thiền định, an lạc thân tâm.
b.      Nhịp sống sinh học
Cân bằng các trạng thái sinh hoạt , tư thế thói quen, sở thích tâm tư tác động nơi thân trong cuộc sống hàng ngày nhằm hướng đến một sự dung hòa thân tâm và ngoại cảnh đó là nhịp sống sinh học tốt. Các anh chị đừng để thân thể chúng ta ở một trạng thái nào đó quá lâu. Một ngày chúng ta ngủ từ 7 – 8 h, đi, đứng khoảng 6 – 7h, chúng ta ngồi để làm việc khoảng 7 - 8h. Trong cuộc sống, nếu chúng ta bị động trong trạng thái ngồi quá nhiều, hãy điều hòa bằng đi, đứng hoặc nằm. Một tư thế thói quen quá lâu, chúng ta tạo một tư thế khác để thư giãn. Một sở thích tâm tư tác động nơi thân sẽ được cân bằng bởi các động thái cộng đồng xung quanh.
Thầy muốn nhấn mạnh: chúng ta điều phối thế nào để việc đi-đứng-nằm-ngồi…, tư tưởng của chúng ta ở một trạng thái thoải mái. Để có được trạng thái thoải mái như vậy, chúng ta phải quan sát kỹ lưỡng thân thể chúng ta cần gì. Nó cần ngủ, thưa các anh chị: đừng nên ngồi, hãy ngủ. Nó cần được ăn, xin thưa: các anh chị phải ăn. Nó cần uống, các anh chị phải uống. Chúng ta không nên miễn cưỡng, có điều là: phải biết tiết độ về chất và lượng. Gấp gáp sẽ dẫn đến nguy hại, phản tác dụng.
c.      Thể dục dưỡng sinh
Cơ thể chúng ta thông thường ít khi thích nghi hoàn toàn với thế giới ngoại tại. Thiên tai, bệnh tật, thay khí chuyển tiết, ô nhiễm môi trường…Tất cả do thiên nhiên gây ra, con người gây ra và nghiệp chướng gây ra. Việc góp phần nuôi dưỡng cho cơ thể chúng ta khỏe mạnh, thể dục dưỡng sinh là điều cần thiết. Tùy theo tuổi tác và sức khỏe hiện tại kết hợp với sở thích, mà các anh chị dành cho mình 1 sự tập luyện sức khỏe cho cơ thể. Tuổi tác cao thì nhẹ nhàng có thể: khởi động tay, chân, đầu, cổ, lưng, đi bộ hoặc chạy jogging; phương pháp dưỡng sinh có thể: tập luyện yoga, dịch cân kinh, thái cực quyền, thể dục nhịp điệu…Đối với tuổi trẻ, mạnh mẽ có thể các môn thể thao thể dục dụng cụ, các môn điền kinh…Điều quan trọng mà các anh chị phải thật hiểu là: thể dục dưỡng sinh đem lại sức khỏe tốt để chúng ta có thể duy trì thời lượng định tĩnh tâm hồn khi trải nghiệm Thiền, không nên quá đam mê và xem nó như mục đích sống dẫn đến dụng tâm sai lạc. Các anh chị tùy thuận vào tuổi tác mà chọn cho mình một cơ chế và phương pháp thích nghi để duy trì sức khỏe.
d.      Ngủ nghỉ thư giãn
Trong các động thái cân bằng sinh vật, sinh hóa và sinh lý cho cơ thể, thì ngủ nghỉ thư giãn góp phần rất lớn đem lại sự bảo hòa cho cơ thể chúng ta. Nhưng nếu ngủ nghỉ hay thư giãn thái quá, hệ quả đem lại là sự trì trệ thân thể và tâm hồn. Thực tế cuộc sống, nếu các anh chị ngủ quá nhiều (hơn ½ ngày) thì chúng ta nên kiểm tra sức khỏe, xem thử đây là bệnh về thân hay tâm. Nếu bệnh do thân thì chúng ta điều chỉnh, có thể do đồng hồ sinh học không hợp lý, phần lớn cũng có thể do chế độ ăn uống không đúng (quá no hoặc quá đói) sinh ra ngủ nghỉ bất thường. Trong trường hợp cần thiết có thể nhờ y khoa can thiệp. Nếu bệnh do tâm (thói quen, lười biếng, nghiệp chướng) thì chúng ta có cách dụng tâm từ từ chuyển thân. Thầy sẽ trình bày phần sau. Nghỉ ngơi và thư giãn cũng vậy, trưa chúng ta nên nghỉ đôi ba chục phút , cơ thể relax được cũng tốt cho thân và tâm; đôi khi quá nhiều công việc hoặc loay hoay vật vã suốt ngày, dành một ít thời lượng để thư giãn thân tâm, giảm stress cũng là điều cần thiết, giúp thân tâm an tịnh trở lại. Ngoài ra, nếu chúng ta cảm thấy cơ thể vẫn khỏe mạnh, không cần nghỉ trưa, không cần thư giãn…thì không sao. Mục đích của ngủ, nghỉ, thư giãn nhằm đem lại cho thân thể chúng ta sự cân bằng sức lực trong sinh hoạt hàng ngày, hướng đến tâm hồn an lạc, dễ dàng hành trì trải nghiệm tâm trong pháp môn Thiền Hiện Đại.
3.      Tâm
a.      Bổn phận
Thưa các anh chị, bổn là chỉ cho bản thân, phận là chỉ cho phận sự. Bổn phận là địa vị phận sự của bản thân. Mình là cha thì mình phải có bổn phận làm cha, mình làm mẹ thì phải có bổn phận làm mẹ, mình làm anh làm chị phải có bổn phận làm anh làm chị, mình làm con cái trong gia đình mình phải có bổn phận làm con cái trong gia đình. Rộng ra, mình là công dân một phường, xã, quận, huyện, tỉnh thành, quốc gia…,mình phải có bổn phận sống trong cộng đồng từng cấp bậc của quốc gia đó. Người biết và sống tròn bổn phận của mình sẽ định vị được tính nhân bản. Đây được xem là dấu ấn đầu tiên đặt nền móng cho Trải nghiệm Thiền học trở về chân tánh, tránh lầm lạc xa rời tự thân, móng tâm xa xôi mà quên đi cái phận vị của mình. Như vậy, nếu mình là trụ cột trong gia đình, mình phải xứng đáng là trụ cột trong gia đình; mình là người nội trợ trong gia đình, mình phải tròn bổn phận là người nội trợ trong gia đình. Bổn phận mình là gì thì mình phải sống, cư xử, thể hiện…với phận vị đó. Không thể có một ai đó quên bổn phận ban đầu của mình mà thành tựu kết quả học Phật hết. Cho nên bổn phận là điều tiên quyết để sau này các anh chị định thân trở về chân thể.
b.      Trách nhiệm
Trách nhiệm đi đôi với bổn phận. Nếu bổn phận thiên về tâm hướng thân thì trách nhiệm thiên về tâm hướng cảnh, nếu bổn phận đề cập nội dung thì trách nhiệm thể hiện hình thức, nếu bổn phận là thiên tính bản chất thì trách nhiệm là khả tính hiện hành; thuần túy Phật pháp mà nói, nếu bổn phận là “thể” thì trách nhiệm là “dụng”. Trong gia đình, mình đã có bổn phận với cương vị của mình thì mình cũng phải có trách nhiệm đối với các mối quan hệ xung quanh bổn phận đó. Nếu mình chỉ có bổn phận mà không có trách nhiệm thì cũng giống như người luôn luôn nói mà không làm, không thể như vậy được. Chúng ta sống với trách nhiệm là chúng ta thể hiện như thật sự quan tâm của mình đối với các mối nhân duyên tương quan từ người thân đến cộng đồng xã hội. Đây là sự xác quyết bước đầu chuẩn mực cho hạnh nguyện chúng ta sau này trên con đường gia công dụng hạnh. Không thể có một ai đó vô trách nhiệm với bổn phận mà thành tựu được hạnh nguyện trải nghiệm Thiền học cả. Mong các anh chị tự nhận định và xác định lại cho mình.
c.      Tư tưởng
Lý tưởng sống được chắt lọc bởi tri thức thường nghiệm, trí tuệ nhất quán cho tư duy và hành động của con người, đó gọi là tư tưởng. Tư tưởng tốt luôn gắn liền với sự hướng thượng về tư duy chủ quan cũng như khách quan nhằm tạo cuộc sống hưng thịnh cho bản thân, gia đình và xã hội. Tư tưởng con người cho sự khởi đầu học Phật luôn hòa nhịp cùng phong tục tập quán, đạo đức xã hội và văn hóa tâm linh, không đi ngược lại những giá trị hạnh phúc lợi lạc của nhân sinh, mà nhằm tiến tới sự an bình thịnh vượng cho mọi người trong xã hội. Người có tư tưởng nhất quán là người làm chủ được chính mình, không bị xao động bởi những tà tưởng. Đây là bước lập trình đầu tiên cho tiến trình phát triển tư duy Thiền học nhất quán. Xác định tư tưởng chính đáng, không để tư tưởng mông lung sẽ dẫn đến việc trải nghiệm tư duy tâm sẽ dễ dàng vào trạng thái an tịnh. Mong rằng bằng trí tuệ và nhận thức sâu sa của các anh chị về cuộc sống và tâm linh. Các anh chị định hình cho mình một con đường đi nhất quán. Đó chính là sự xác quyết tư tưởng cho mình.
d.       Tinh thần
Nuôi dưỡng tinh thần và trau giồi trí tuệ nhằm đem lại một sức mạnh ý chí và nhận thức mẫn tiệp là vấn đề mà mỗi chúng ta, những người được xem là nhân sĩ học Phật phải trang bị cho mình trước tiên. Nếu tư tưởng là hệ quả của sự tư duy được chắt lọc kỹ càng cho lý tưởng sống và làm việc của mình, thì tinh thần là sức mạnh nuôi dưỡng ý tưởng đó. Một tinh thần mạnh mẽ, sáng suốt sẽ đẩy lùi mọi sự trì trệ u tối của tâm hồn. Tinh thần luôn luôn được hun đúc nhờ có tư tưởng chính đáng. Tinh thần sáng suốt, mạnh mẽ sẽ chủ động điều phối và dung hòa được ý thức và vật chất trong cuộc sống. Như vậy, sức mạnh tinh thần tạo nên tâm trí vững chãi, hướng đến sự thành tựu về vật chất cho bản thân chúng ta và đem lại sự yên bình cho tâm hồn chúng ta, định hướng cho chúng ta không lệch lạc khi dấn thân dụng hạnh Thiền học sau này.

*  Các anh chị hãy nhìn lại 3 điều cần được trình bày qua 12 mục. Tuy nó được phân định như vậy, nhưng đó là một thể thống nhất tương quan nhân duyên với nhau. Nếu ngoại cảnh động sẽ tương tác thân động và hệ quả là tâm dễ động; nếu ngoại cảnh tĩnh sẽ tương tác thân tĩnh dẫn đến tâm dễ tĩnh. Tâm, thân và cảnh hòa quyện lẫn nhau theo chiều hướng thuận, trong một chừng mực nào đó khi duyên lành hội tụ, chúng ta sẽ thấy nó là một thể thống nhất như thật. Chúng ta là người học Phật, dụng tâm Thiền, điều trước tiên và quan trọng hơn bao giờ hết là phải quán triệt 3 điều cần này. Hiện tại, các anh chị tự xét thân tâm đối với 3 điều cần ở trên có thể chưa được trọn vẹn, nhưng không sao hết. Các anh chị có thể làm lại từ đầu kể từ hôm nay. Thực hiện từng phần, từ từ có tiến bộ và hiệu quả khả quan, dẫn dếnd thân tâm mình nhẹ nhàng và an lạc là đúng. Hãy lập lại trật tự quán chiếu tâm thân và cảnh, tư duy và hành động đúng cho bản thân, gia đình và xã hội, tạo tiền đề tốt cho sự thực nghiệm Thiền.
Kính thưa các anh chị, ở trên là 3 điều kiện cần mà tất cả chúng ta cần phải có. Tiếp theo đây, thầy xin trình bày 5 điều kiện đủ xuất phát từ tự tâm.
B. Điều kiện đủ (niềm tin, chân thật, từ bi, tinh tấn và lòng vị tha)
1.      Niềm tin
Thưa các anh chị, niềm tin là điều kiện đủ đầu tiên cho bất kỳ ai muốn làm điều gì. Niềm tin của con người là kim chỉ nam hướng đến mục đích trong cuộc sống, từ tư duy chủ quan đến cái nhìn khách quan, từ đối nhân xử thế đến lý tưởng tu tập. Không thể có ai đó nói rằng: tôi không tin bất kỳ điều gì trên thế gian này. Vì rằng nếu không tin gì hết thì chính là họ đang tin cái điều không tin ấy là đúng. Nhưng nếu ai đó có tư tưởng như vậy, thì thực là một trạng thái vô tiền khoáng hậu của tư duy, mà con người thì phải bước từng bước đi thực tại trong cuộc sống của mình. Niềm tin của người học Phật là niềm tin được xác quyết bằng chính sự tư duy, trí tuệ chắt lọc của mình. Người học Phật luôn tùy thuận mọi giá trị sống trong thế gian này, không tách biệt khỏi thế gian mà thực sự sống như thật tại thế gian để nhận ra một vấn đề cùng tận đó là gì. Chân lý của niềm tin thực tại xuất phát từ chính mình. Niềm tin Phật pháp luôn xuất phát từ tính nhân bản, tư duy, trí tuệ quán chiếu. Nếu các anh chị không tin mình có một khả năng thực hànhThiền định, nhằm hướng đến thành tựu thì xin thưa, các anh chị sẽ không bao giờ thành tựu. Cũng như mình làm một công việc gì mà mình không tin nó sẽ thành công thì nó sẽ không bao giờ thành công. Làm cái gì cũng phải có mục đích. Niềm tin ở đây thầy muốn nhấn mạnh, các anh chị phải tự tin vào bản thân mình có một Phật thể hiển hiện trong đó. Mình chính là Phật sẽ thành. Nói cách khác, chân tâm của chúng ta luôn trong lặng, sáng suốt; chân tâm có đầy đủ công đức của từ bi, hỉ xả; chân tâm của chúng ta có đầy đủ sự diệu dụng của thanh tịnh và hòa hợp. Các anh chị phải tin vào bản thân mình như vậy. Một ngày nào đó mình dụng công Thiền tập, mình sẽ trở về với chân tâm của chính mình, nơi đó chính là đức Phật Lô giá na, nơi đó chính là bản thể hiện ra tướng dụng của vũ trụ. Các anh chị phải tin. Trước đây các anh chị chưa tin một cách xác quyết, không sao, ngày hôm nay, các anh chị bắt đầu thực hành Thiền tọa, Thiền hành, Thiền trụ, Thiền ngọa...các anh chị phải có một niềm tin. Mà niềm tin này, thầy không bảo các anh chị tin ở thế giới bên ngoài, mà các anh chị hãy quay trở lại, tin vào nội lực của chính bản thân mình. Điều đó rất quan trọng. Các anh chị có thể đi từ hình thức đến nội dung để trở về bản chất, bằng cách Quy y Tam bảo. Hãy cảm nhận ở chính mình có duyên với Tam bảo cụ thể ở đâu, chúng ta nên chủ động phát tâm quy y. Ở Hà Nội này thầy biết có rất nhiều vị minh sư, quý vị nên thưa thỉnh các vị minh sư đó, tác bạch trước Phật Pháp Tăng: Cho con về quy y Tam bảo, tức là trở về nương tựa với Phật- trong lặng sáng suốt, với Pháp- từ bi bình đẳng và Tăng- thanh tịnh hòa hợp. Được vậy, trên bước đường tu tập, thực nghiệm… các anh chị sẽ cảm thấy tinh thần mạnh mẽ, niềm tin vững chắc. Nếu không, tâm tư sẽ dễ sinh ngạo mạn, đường đi sẽ rất dài, không nơi nương tựa và sự hành trì dễ bị mông lung.
2.      Lòng chân thật
Sự chân thật từ suy nghĩ đến hành động giúp chúng ta gần gũi với chân lý. Sự chân thật của người Thiền tập cũng vậy, sẽ không từng bước thành tựu Thiền thực nghiệm nếu tâm chúng ta dối trá. Chắc chắn là như vậy. Chúng ta sống dối trá mà chúng ta mong rằng Thiền tập để trở về an lạc sáng suốt và giải thoát niết bàn thì không bao giờ có. Lòng chân thật ở đây là chúng ta phải sống, tư duy và hành động chân thật  từ bản thân mình, người thân mình, gia đình mình cho đến cộng đồng xã hội. Trước đây, nếu các anh chị chưa chân thật với mình, với người…, cũng không phải là chấm hết, chúng ta sẽ xoay chuyển tâm tư và hành động. Thực ra thì đây cũng là căn bệnh chung. Vì là chúng sinh thì có bản năng đấu tranh sinh tồn, có sự tham ái, có sân hận, có sự si mê…Đó là do trước đây, chúng ta chưa biết. Bây giờ chúng ta đã có lý tưởng của mình, tin vào sự hành trì của mình có mục đích, có sự hướng tâm trongThiền tập, chúng ta đã cảm nhận được rằng cuộc đời này quá ngắn ngủi, cao lắm chỉ vỏn vẹn có 100 năm mà thôi. Thật là quý hóa cho chúng ta biết tu tập và gặp được phương pháp hành trì hướng đến an lạc nội tâm, thì ngay giờ phút này chúng ta hãy thệ nguyện với lòng mình: cho dù xả bỏ thân mạng cũng giữ tấm lòng chân thật. Bao nhiêu sự dối trá trước đây nguyện xin sám hối bỏ hết. Con xin Tam bảo chứng minh, nguyện sống chân thật từ thân mình,lời nói cho đến ý niệm từ đây cho đến mãi mãi về sau.
3.      Lòng từ bi 
Lòng “từ” là giúp  cho ai đó có niềm an lạc, lòng “bi” là giúp cho ai đó vơi bớt khổ đau. Từ bi là tình thương từ nội tâm hướng ngoại cảnh. Trải rộng tấm lòng thương yêu không chỉ loài người mà tất cả mọi loài. Lòng từ bi xoa dịu nỗi đau thương của chính mình, xoa dịu nỗi đau thương cho mọi người và cho cả vạn vật. Đây là nhân tố dẫn đến sự hòa hợp, tạo sự gần gũi giữa người với người, trong cộng đồng xã hội, trong quốc gia của mình và trên thế giới. Đối với muôn loài, lòng từ bi tạo nhân lành, xóa tan bao nghiệp chướng gây oán cừu nhiều đời giữa mọi loài với nhau. Cho nên, bao lâu mà lòng từ bi còn hiện hữu trên cõi đời này, thì lúc đó con người còn cảm thấy có sự ấm áp, được san sẻ bởi tình thương đồng loại, tình thương chúng sinh vạn loại. Ngược lại, tấm lòng độc ác và tham lam mà hiện hữu trong chúng ta thì làm sao chúng ta có duyên lành để tu tập Thiền? Thiếu hoặc mất lòng từ bi trong chúng ta, thì tham sân si và ác tính dễ có cơ hội hiển thị, lúc đó chúng ta thực tập Thiền sẽ khó vô cùng, và ý niệm tà vạy này đưa chúng ta đến một trạng thái bấn loạn tâm tư hoặc tà tưởng.
Các anh chị biết được điều này, chúng ta nên phát khởi lòng từ bi như thật từ tư duy trí tuệ chính mình.
4.      Tinh tấn
Thưa các anh chị, tinh thần mạnh mẽ, quyết chí hành trì, không nài khó nhọc…là những biểu hiện của sự tinh tấn. Tinh tấn trong thực tập Thiền nghĩa là  mình mạnh mẽ về ý chí và dụng công đắc lực, lòng khao khát Thiền tập, dấn thân nhiệt thành và cố gắng giữ thời khóa nhất định không bỏ. Sự tinh tấn như truyền lửa cho chúng ta trong đời sống tu dưỡng và tạo thói quen cho chúng ta tiếp cận phương pháp tu tập đem đến hệ quả từng bước càng lúc càng rõ ràng, không bị mê mờ, không bị xao lãng. Ngược lại, nếu thực hành biếng trễ , dụng hạnh thờ ơ, gia công riu riu…dễ đưa chúng ta đến trạng thái nửa say nửa tỉnh, lững thững tâm tư, tinh thân không chuyên nhất, lần lượt qua ngày, kết quả chẳng được gì.
Không thể vì bạn bè hay vì một chuyện gì khác vui chơi mà chúng ta bỏ đi thời Thiền tập của mình nếu điều đó không cần thiết; hoặc vì dung túng ở thân tâm, phóng duyên đắm nhiễm ngoại cảnh, chạy theo du hý thế gian mà chúng ta quên đi chí nguyện của mình. Nếu chúng ta xem nhẹ sự miên mật trong Thiền tọa thì không do đâu để cho chúng ta đạt đến trạng thái định tâm và định thân. Cho nên tinh tấn rất quan trọng, nó như sợi dây xuyên suốt. Nếu niềm tin chỉ cho sách lược, thì tinh tấn chỉ cho chiến lược; nếu niềm tin là ý chí hướng đến, thì tinh tấn là ý chí thực hành; nếu niềm tin là quả, thì tinh tấn là nhân; nếu niềm tin chỉ cho mục đích thì tinh tấn chỉ cho con đường…Các anh chị hãy cố gắng nỗ lực.
5.      Lòng vị tha
Lòng vị tha là tinh thần và hành động trong cuộc sống vì mọi người vì mọi loài. Vị tha có nghĩa là hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích số đông. Ngược lại với vị tha là ích kỷ. Không có tinh thần vị tha thì chúng ta chỉ biết sống cho mình, mọi nóng lạnh của muôn loài xung quanh không cần biết đến, thế thì làm sao chúng ta tu tập phát triển tư duy, khởi tâm sâu rộng được. Thực tập Thiền là chúng ta muốn thân của chúng ta được an lành, tâm chúng ta an tĩnh, hướng tới sự giải thoát thân tâm và cảnh. Muốn giải thoát thân tâm và cảnh thì chúng ta phải có tấm lòng bao dung, không thể đóng khung trong thế giới tâm lý thường tình. Chân lý như thật làm sao có thể hiển thị trong một tâm hồn nhỏ bé, đoanh vây bởi lòng hẹp hòi nhỏ nhen được. Lòng vị tha cũng là bước khởi đầu cho lòng từ bi trọn vẹn. Sự trợ duyên đắc lực cho chúng ta thực tập Thiền là điều kiện thuận duyên xung quanh, mà trong đó, lòng vị tha là nhân lành tạo sự hòa cảm giữa muôn loài, hướng đến một môi trường sống bình an không xung đột, tâm hồn chúng ta sẽ nhẹ nhàng thư thái. Nếu lòng từ bi xuất phát từ nội tâm hướng ra ngoại cảnh, thì lòng vị tha xuất phát từ ngoại cảnh tác động vào nội tâm; lòng từ bi là đỉnh cao cuối cùng thì lòng vị tha là nấc thang đầu tiên.

Thưa các anh chị, tâm điểm của 5 điều kiện đủ đều xuất phát từ lòng chân thật. Niềm tin và tinh tấn làm nhân quả cho nhau hướng đến giải thoát tương lai bắt đầu từ an lạc nội tại, lòng từ bi và vị tha làm nhân quả cho nhau đi từ an lạc nội tại hướng đến giải thoát tương lai. Ở trên, 5 điều kiện đủ thầy đã trình bày cho các anh chị là: Niềm tin, lòng chân thật, lòng từ bi, sức mạnh tinh thần của sự tinh tấn và tấm lòng vị tha. Đó là các nhân tố kiện toàn cho tâm, thân và cảnh của quý vị trên bước đường trải nghiệm thực tập Thiền Hiện Đại không bị sai lệch. Dựa trên nền tảng vững chắc này, các anh chị không phải phân vân gì nữa. Hãy mạnh dạn dấn thân trải nghiệm bằng tư duy hành động trong cuộc sống và nỗ lực gia công dụng hạnh. An lạc hiện tại và lạc trú tương lai đang song hành cùng anh chị.
* Tóm lại, nếu cảnh không thích hợp thì tâm không dễ tương thích; hoặc môi trường ô uế, lung tung thì dẫn đến tương tác tâm, chúng ta sẽ bị loạn tâm.
Nếu thân bị suy nhược, yếu đuối thì sẽ dẫn đến buồn ngủ và thân bị động.
Nếu tâm không trong sáng mà u tối thì ý thức tinh thần của chúng ta rất là mông lung.
Nếu chúng ta không có niềm tin vững chãi, bị mờ mịt thì dẫn đến con đường chúng ta đang đi không mục đích.
Nếu chúng ta không có một tấm lòng chân thật mà là sự dối trá, thì sự Thiền tập sẽ đưa tâm tư chúng ta tà ngụy, vọng tưởng, hư dối.
Nếu chúng ta không có lòng từ bi mà chỉ có tham dục và độc ác thì Thiền tập dẫn chúng ta đến con đường thiên kiến, cực đoan, tà hạnh.
Nếu chúng ta không có một sự tinh tấn mà tâm tư luôn biếng nhác, thì dễ bệnh “ngôn thiền”, tức là chỉ nói về Thiền mà không có thực hành Thiền, đọc được vài ba quyển sách, năm mười quyển sách rồi lầm tưởng sự hiểu biết mình là cứu cánh an lạc, nhưng tư tưởng hành động luôn bị khổ đau, phiền não đoanh vây.
Nếu chúng ta không có lòng vị tha mà chỉ có lòng ích kỷ, cho dù chúng ta thực tập Thiền 30 năm, 50 năm, thì  cái thế giới tâm lý, cái thế giới mà sở đắc của chúng ta vẫn bị đóng khung, hữu hạn. Như vậy hệ quả an lạc hiện và lạc trú tương lai quá ít ỏi.
Nếu phải có một câu gì đó cho lời kết của bài học này, thầy xin nói với các anh chị rằng: thường thường người ta học Thiền, tu Thiền, trải nghiệm Thiền…người ta luôn nghĩ mình đã được gì, đang được gì và sẽ được cái gì; nhưng con đường vào cảnh giới Thiền, trên từng bước đi, chân lý tương ưng với chúng ta luôn luôn là: đã bỏ được gì, đang bỏ được gì và sẽ bỏ được gì.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Monday, November 7, 2011

Bài 1: TỔNG QUAN THIỀN

(Thầy Thích Quảng Sự - trụ trì chùa Phổ Đà, Hàm Tân, Bình Thuận)


1. Khái niệm về Thiền:
Tựa của chuyên đề này là khái niệm về Thiền học. Nói đến Thiền, không có nghĩa chỉ có Thiền của Phật giáo.Tất cả các học thuyết, các tôn giáo, các phương pháp, các sự thực tập, và các sự trải nghiệm…nhằm đưa người luyện tập đến trạng thái khỏe mạnh thân thể, an tịnh tâm hồn, có mặt tại Việt Nam và trên thế giới đều có thể được gọi là Thiền.
Thưa các anh chị, trong cuộc sống đầy dẫy sự xao động từ tâm hồn đến vật chất, chúng ta lại có thắng duyên được lục căn đầy đủ; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể của chúng ta và điều tuyệt vời nhất là ý thức của con người. Tất cả các anh chị đều có đủ. Đó là điều quý. Các anh chị còn được thừa hưởng một gia tài truyền thừa của nhân loại mà khoa học vật lý, hóa học, toán học giúp các anh chị trong cuộc sống. Và các anh chị được hạnh phúc thừa hưởng gia tài không biên giới về kỹ nghệ CNTT, triết học, văn học và đạo học... Nhất là, hạnh phúc thay, khi các anh chị được sống trong một quốc gia độc lập tự do.
Tuy các anh chị đều có nhiều thắng duyên như vậy, nhưng tất cả chúng ta đều phải sống trong thế giới đầy biến động và nhiễu nhương của ô nhiễm môi trường, thiên tai lũ lụt, bệnh tật oan khiên… Các anh chị có biết rằng, chúng ta đang ngồi trên mảnh đất  Việt Nam này, mà cụ thể nhất là tại giảng đường của ngôi chùa Bồ Đề này, thực sự chúng ta không phải ngồi yên, mà sự biến động trong tâm tư, trong hoàn cảnh và trong thân thể của chúng ta từng giây từng phút. Kỳ thật, không phải từng giây từng phút nữa, mà là từng sát na của thời gian, sự biến động đó vẫn có trong mỗi chúng ta. Cho nên nhu cầu hướng đến sự an tĩnh tâm hồn không chỉ là nhu cầu của chúng ta mà là nhu cầu chung cho toàn xã hội. Ở đâu đó, trong cuộc sống của mình, các anh chị đã học, đã nghe, đã cảm nhận, đã từng một lần hay nhiều lần chiêm nghiệm về Thiền, đó là động thái rất đáng trân quý. Khái niệm về Thiền rất nhiều, nhưng suy cho cùng, khái niệm mà người ta nói về Thiền đó, kỳ thật chỉ là cho vui tai, nhằm đưa các anh chị một sự cảm nhận thích thú và hướng đến. Kỳ thật, các định nghĩa đó không diễn tả hết được cốt lõi của Thiền.
Có người định nghĩa từ Thiền qua văn học: cuộc đời này sẽ mới mẻ hơn, tốt đẹp hơn khi chúng ta trải nghiệm Thiền học. Có những định nghĩa mang tính chất triết lý: Thiền học đem lại cho chúng ta sự tĩnh lặng của tâm hồn. Và nhiều hơn nữa: danh từ thiền, tính từ thiền, động từ thiền …Thực sự người ta nói rất nhiều về Thiền. Có nhiều định nghĩa từ Thiền bằng cách phủ định: Thiền là một trạng thái vô nhị. Thiền là một trạng thái mà nơi đó không còn sự lý luận, vắng bặt của ý thức.
Nhưng, thưa các anh chị, bao lâu mà người ta còn có sự tư duy về từ Thiền, bao lâu mà các anh chị còn hướng tâm về việc Thiền, thì nơi đó, Thiền chỉ là con đường dẫn đến con đường Thiền, chứ Thiền không phải là kết quả. Các anh chị lưu ý, thầy xin nhắc lại, bao lâu mà các anh chị còn tư duy về từ Thiền, còn tư duy về cảnh giới Thiền, thì nơi đó các anh chị mới đang đi trên con đường để đến con đường thực nghiệm Thiền, chứ các anh chị chưa ở trong trạng thái con đường đi đến kết quả Thiền.
Sẽ không có định nghĩa Thiền nào rốt ráo hết. Thưa các anh chị, nếu miễn cưỡng để nói về Thiền, định hướng mà thầy nghĩ rằng sẽ giúp ích cho các anh chị trên con đường Thiền tập sau này, chỉ là giúp ích thôi, chứ câu này không phải là chỉ sự rốt ráo mà các anh chị tư duy là đến được.
Định hướng này cũng giống như ngón tay để chỉ mặt trăng. Khi ngón tay chỉ mặt trăng thì chân lý Thiền nằm ở mặt trăng chứ không phải ở ngón tay. Nếu các anh chị cho rằng chân lý Thiền ở ngón tay thì mình chỉ đang ở trạng thái đi trên con đường dẫn đến con đường mà thôi. Các anh chị phải nương vào ngón tay để thấy mặt trăng chân lý Thiền thì mới đúng.
Cách đây khoảng 1500 năm về trước, Bồ Đề Đạt Ma, vị được xem là Sơ Tổ của Thiền tông Trung Hoa, cũng là vị tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ, khi có người hỏi về Thiền, ông nói như sau: “Thiền là tâm không khởi. Định là tâm không động. Thiền là tâm không nhiễm trước bên ngoài. Định là tâm không loạn động bên trong.”


Sau đó khoảng 150 năm, Lục Tổ Huệ Năng lại một lần nữa nhấn mạnh về con đường Thiền cho tất cả các hàng môn đệ. Ông nói: “Ngoại bất trước tướng vi thiền, nội bất loạn động vi định” (Ngoài thì không nhiễm trước gọi là thiền, trong tâm không loạn động thì đó là định).
Thời đại ngày nay, người ta đã hiểu Thiền theo nhiều nghĩa và nhiều phương pháp khác theo tùy trường hợp và tùy phương pháp mà các anh chị có lẽ đã thấy và biết. Nhưng thầy muốn nhấn mạnh với các anh chị rằng: Nếu hiểu Thiền theo nghĩa này, thì không phải Thiền chỉ cho Thiền xuất hiện trong Phật giáo.
Trước Phật 3000 năm, người Ấn Độ đã có sự tư duy hướng đến an tịnh tâm khi họ trú trong các hang động. Chính sự tư duy đó, tìm cho mình sự an bình đó, dần dần về sau, họ phát triển thành học thuyết gọi là học thuyết Vệ đà, mà thời kỳ rực rỡ nhất của học thuyết Vệ đà là thời kỳ của Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Nếu quí vị muốn tìm hiểu, có thời gian nhiều, thì đọc quyển sách Áo Nghĩa Thư, các vị sẽ hiểu nhiều về nguồn gốc của con người hướng đến sự tĩnh lặng trong quyển sách này.
Nếu là như vậy, Thiền kỳ thật là một trải nghiệm tâm thức hướng đến trạng thái dưỡng tâm tĩnh lặng đã có từ lâu trong lòng của nhân loại để xua đi bao nỗi loạn động của thế giới bên ngoài, để tâm hồn được an lạc.
Thưa các anh chị, với đề tài tổng quan về thiền, ở đây, thầy không phân biệt bất kỳ điều gì về: Thiền này hơn Thiền kia, Thiền kia hơn Thiền nọ. Không có điều đó.
2.Các phương pháp Thiền
Như trên thầy đã nói, về sau nhiều phương pháp Thiền ra đời. Nó phù hợp với phong tục vùng miền, gắn liền với cuộc sống con người trong từng quốc gia, một thời kỳ hay trải dài nhiều thời gian nhất định, mà chúng ta có những dòng Thiền của Yoga. Trước tiên, là dòng Thiền của đạo Jiana. Mục đích của dòng Thiền này mà sau này chia ra thành Yoga trong 8 ngành hoặc 6 ngành, tùy theo nhu cầu thực nghiệm hay sự hứng khởi của con người. Thể theo sự tương thích của con người mà có 8 ngành khác nhau, từ Thiền thực tập sức khỏe,Thiền hợp nhất, Thiền mantra, Atman trở về Brahman, cho tới những dòng Thiền mà đem tới tình thương cho mọi người. Tất cả đều tốt.
Đến thời kỳ Phật giáo , đức Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài đã thành tựu đạo quả dưới gốc cây bồ đề qua 49 ngày Thiền định. Thưa quý vị, phương pháp mà đức Phật thành tựu dưới cội bồ đề có khác với tất cả các phương pháp hành Thiền vào thời bấy giờ và trước đó.
Khác như thế nào? Nhiều kinh điển ghi nhận sự giác ngộ của Phật về Thiền định. Bằng sự thật, Ngài tuệ tri rằng vạn pháp là vô thường. Bằng sự thật, Ngài tuệ tri rằng: lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) khi tương tác với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra lục thức (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân và ý thức) vốn tự vô thủy vô chung, trạm nhiên không tịch. Lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức: đường thể tức không. Nghĩa là: không từ đâu sinh ra, không từ đâu mất đi. Một sự vắng bặt tuyệt đối, không sanh không diệt.
Tâm Ngài không nhiễm trước đối với 18 giới (lục căn, lục trần và lục thức). Ngài đã chứng thành đạo quả vô thượng bồ đề, tâm Ngài vắng lặng, khởi ra diệu dụng hà sa, cứu độ chúng sinh bằng hơn 40 năm thuyết pháp dọc theo sông Hằng từ Nam đến Bắc Ấn. Hóa độ chúng sinh mà tâm thường vắng lặng, tâm thường vắng lặng mà luôn hóa độ chúng sinh, thể dụng viên thông.
Đức Phật Thích Ca truyền ý chỉ Thiền cho Ma Ha Ca Diếp, tiếp nối nhau truyền đến đời thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Ngài sang Trung Hoa truyền đến 6 đời là Lục Tổ Huệ Năng: Từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền xuống cho ngài Huệ Khả, ngài Huệ Khả, tức là Thần Quang truyền xuống ngài Tăng Xán, ngài Tăng Xán truyền xuống cho ngài Đạo Tín, ngài Đạo Tín truyền xuống Đông Sơn Hoàng nhẫn, ngài Hoàng Nhẫn truyền xuống ngài Lục Tổ Huệ Năng.
Từ Lục Tổ Huệ Năng, dòng Thiền ở Trung Quốc chia ra làm 5 nhánh: Lục Tổ Huệ Năng có những vị đệ tử kiệt xuất, có thể kể đến như Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư, hàng tử đệ sau này chia làm 5 nhánh:
-  Nhánh 1: Lâm Tế  (Lâm Tế Nghĩa Huyền)
-  Nhánh 2: Quy Ngưỡng (Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch)
-  Nhánh 3: Tào Động (Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch)
-  Nhánh 4: Vân Môn  (Vân Môn Văn Yển)
-  Nhánh 5:  Pháp Nhãn (Pháp Nhãn Văn Ích)
Trong 5 dòng Thiền này, Lâm Tế về sau lại chia thành 2 là: Hoàng Long Huệ Nam và Dương Kỳ Phương Hội, tại Trung Quốc trải dài một thời kỳ từ Tùy Đường Tống Nguyên đến Minh Thanh đều phát triển một cách rực rỡ, nhiếp hóa được nhiều bậc vua chúa và tri thức đương thời. Văn hóa Thiền đã để lại cho nhân loại nói chung và đất nước Trung Quốc nói riêng những tác phẩm cực kỳ quý báu: Cảnh đức truyền đăng lục, Ngũ đăng hội nguyên, Tông cảnh lục…1700 công án Thiền sau này được kết tập lại. Thêm nữa, khoảng 2300 công án thiền để cho muôn đời sau khán lãm, con cháu các dòng truyền thừa thực tập. Năm dòng bảy phái này tới thời đại của chúng ta thì hầu như chỉ còn 2 dòng tồn tại  là Lâm Tế và Tào Động. Không chỉ tại Trung Quốc, Thiền đã lan tỏa sang Nhật Bản,Triều Tiên, Việt Nam…cũng phát triển tốt đẹp.
Dòng thiền Lâm Tế và Tào Động đã ảnh hưởng trực tiếp hoăc gián tiếp đến các dòng Thiền ở Việt nam sau này. Đệ nhất Trúc lâm tổ sư (Hương Vân Đầu Đà- Trần Nhân Tông), đệ nhị Trúc lâm tổ sư (Pháp Loa Tôn Giả) và đệ tam Trúc lâm tổ sư (Huyền Quang Tôn Giả) đều ảnh hưởng nhất định dòng Thiền của Trung Quốc. Cho đến thời đại của chúng ta ngày hôm nay thì Thiền học không chỉ được thực nghiệm trong Thiền viện, chùa chiền…, mà đã thấm nhuần trong cuộc sống nhân sinh.
Các anh chị đã từng nghe nói tới Yoga, phương pháp Thiền đặc trưng cho những người muốn đào luyện sức khỏe và tâm linh. Đây là một phương pháp rất hay.
Nhân điện là một phương pháp Thiền tuyệt vời được khai sáng bởi Dasira Narada (1846 – 1924). Ông là một vị Thiền sư lỗi lạc của Tích Lan. Khi đi dọc qua Hy mã lạp sơn, ông đã chứng đắc đạo quả trên dãy núi này. Từ đó, ông đã pháp triển phương pháp Thiền này hướng đến từ bi với tính cách như đức Phật Dược Sư. Ông đã chuyển năng lượng vũ trụ hòa cùng năng lực sự tu chứng của mình để cứu tất cả mọi người, bằng phương pháp mở các luân xa từ luân xa 1 đến luân xa 7. Sau này đã có những vị truyền thừa rất giỏi, rất nổi tiếng, đã đem lại lợi lạc cho nhiều người về sức khỏe và tâm linh. Ngày nay, người ta còn khoa học hóa thành học thuyết là cảm xạ học.
Tại Trung Quốc xa xưa, có thể là cùng thời đức Phật hay sau đó ít năm, đã xuất hiện đạo Lão và đạo Khổng. Chắc quý vị biết, Lão Tử, tức Lý Nhĩ. Ông là người sáng lập ra Đạo học, là người chủ trương khai nền tảng luyện tinh, khí và thần để hợp nhất với Đạo. Đây cũng là một phương pháp rất tuyệt. Vì luyện tinh để giữ noãn khí (hơi ấm) cho cơ thể. Con người không có hơi ấm là chết, rất nguy hiểm. Khí là để giữ sức khỏe cho cơ thể. Con người không có khí lực là chết, rất nguy hiểm. Thần là giữ cho tâm trí không bị mê mờ. Vừa có sức khỏe, vừa có hơi ấm, vừa có tinh thần. Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần. Đó là phương pháp Thiền mà người ta thường gọi là Đạo Vô Vi của Lão Tử. Về sau, cũng dựa vào học thuyết Vô Vi mà nhiều trường phái khí công đã ra đời tạo nên một trào lưu cho hàng hàng lớp lớp người thực hành trưởng dưỡng sức khỏe cho chính mình.
Có những phương pháp Thiền xuất hồn. Nhưng thưa các anh chị, không phải xuất hồn. Thực sự không phải là xuất hồn. Người mà mở được cái huyệt Huyền Quan, tức là huyệt Bách Hội ở trên đầu, thì lúc đó tâm thức của người Thiền định tương ưng với một cảnh giới nào đó theo nghiệp duyên, tùy theo sở thích, hướng tâm tương thích với cảnh giới nơi đó, cho nên người ta gọi là xuất hồn . Kỳ thực không phải là hồn của con người bay ra khỏi con người, rồi bay ra nơi nào đó.  Mà đó là một trạng thái khi mở khiếu huyệt, tâm thức của người Thiền định tương ứng với một cảnh giới nào đó theo sở thích, theo nghiệp duyên..., cảm nhận dường như thật có đi ngao du hay học đạo ở một nơi nào đó, cảm thọ tương thích với cảnh giới nơi đó. Phương pháp Thiền này cũng tốt, nhưng rất nguy hiểm nếu không có người hướng dẫn.
Thưa các anh chị, tất cả các pháp môn, tất cả các phương pháp Thiền học đều đem lại lợi lạc cho chúng ta về sức khỏe và tinh thần. Ở đây, thầy không bình luận bất kỳ điều gì về Thiền nào hơn Thiền nào.Tất cả đều có giá trị đặc trưng của nó.
3.Thiền hiện đại
Ở trên, quý vị đã có khái niệm tổng quan về Thiền, thầy đã giới thiệu cho các anh chị một cách khái quát các phương pháp Thiền. Bây giờ thầy trình bày con đường Thiền Hiện Đại. Đây là pháp môn Thiền Phật giáo, không phải tự thầy sáng tác ra, mà pháp môn này, thầy căn cứ vào lời dạy qua sự chứng ngộ của đức Phật, căn cứ vào nguyên lý đầu tiên mà đức Phật dạy về Thiền, kết hợp với sự diệu dụng của Phật pháp Đại thừa, nhằm tương thích với tất cả chúng ta mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. Đó là Thiền Hiện Đại mà hôm nay thầy sẽ trình bày cho tất cả quý vị.
Thiền Hiện Đại là gì? Tri nhận trên ngôn từ, thì Thiền Hiện Đại không có nghĩa là đối lập với Thiền xa xưa, mà hiện đại ở đây có nghĩa: chính lúc này, bây giờ, cho dù là hôm qua, hôm nay hay mãi mãi về sau, hiện đại chính là lúc chúng ta đang là gì, đang làm gì trong lúc ấy. Trình bày về nó nghĩa là chỉ ra con đường để các anh chị hướng tới. Kết quả thì phải trải qua cả một quá trình hành trì, thực nghiệm, thực tập, dấn thân, nhiệt tâm và coi pháp môn này như mạng sống của mình thì tự thân tâm các anh chị sẽ cảm thấy tiến bộ trong từng bước đi của cuộc đời tu tập.
Như vậy, Thiền Hiện Đại là phương pháp đào luyện tâm hiện tại để cho chúng ta tương thích với mọi hoàn cảnh, mọi thời gian trong cuộc sống, nhằm thể nghiệm như thật hiện tại an lạc và giải thoát ở tương lai.
Như các anh chị đã được biết trên phương diện ý nghĩa của từ Thiền, đó là hướng tâm về một vấn đề, khảo sát về một vấn đề, chú tâm về một vấn đề. Từ đó mà tâm hồn chúng ta sẽ được an tịnh, đưa thân tâm chúng ta đến sự nhẹ nhàng, hòa dịu, tạo cho thân tâm chúng ta thích hợp với cảnh vật bên ngoài trong từng động thái:  đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện, học tập, làm việc … Tất nhiên không phải  tất cả các động thái đó đều đem lại cho các anh chị trong mỗi tư thế hiện hành hiệu quả 100%. Trong bốn động thái thường (đi đứng nằm ngồi), thì đi, đứng và nói chuyện rất khó để chúng ta trực nhận đương thể tĩnh lặng; trong khi các anh chị ngồi và có thể là nằm thì trạng thái tĩnh lặng dễ tương thích hơn.
Như thầy đã nói, thực tập Thiền Hiện Đại là thực nghiệm ngay trong giây phút hiện tại mà chúng ta đang sống; hiện tại chúng ta đang sống, nghĩa là chúng ta đang làm gì trong lúc này, tại nơi nào. Chúng ta đang làm gì, thì chúng ta an trú vào thời điểm, địa điểm hiện tại đó để khảo sát.
Tri nhận như thật để khảo sát hiện tại, đó là Thiền, trú tâm chuyên nhất vào thời điểm hiện tại, đó là Định. Nhưng mà con đường để các anh chị khảo sát như thật một cách trọn vẹn nơi giây phút hiện tại và nhất tâm chuyên chú hiện tại vào đương cảnh là cả một quá trình từng bước trải nghiệm như thật của thân tâm. Không phải thầy nói, nghe rồi hiểu là được.
Cho nên sau khi nghe thầy nói về Thiền Hiện Đại rồi, buổi thực tập đầu tiên là để các anh chị cảm nhận tợ tướng (bóng dáng của thật tướng) của Thiền Hiện Đại là gì. Thực tập Thiền, thể nghiệm Thiền trong giây phút hiện tại, mà tâm, thân và cảnh chưa tương ưng thì chúng ta chỉ đi trên con đường dẫn đến con đường Thiền Hiện Đại thôi, chưa phải chúng ta đi trong pháp môn này chứ đừng nói đạt được mục đích. Khi nào 3 trạng thái thân tâm cảnh hướng tới tương dung tương nhiếp với nhau trong giây phút hiện tại, thì đó là chúng ta bắt đầu tới trạng thái nhất tâm. Ở trạng thái này, chưa phải là đạt tới hệ quả rốt ráo của Thiền Hiện Đại.
Khi nào tâm và cảnh nhất như trong mọi thời gian và không gian, đương thể không khởi niệm trú vào trạng thái nhất như đó, thì lúc đó chúng ta sống trong hệ quả như thật, trong cảnh giới như thật của Thiền hiện đại.
Ví như hiện nay, các anh chị đang về đây thực tập Thiền Hiện Đại, nghĩa là các anh chị đi từ nhà mình đến chùa Bồ Đề. Khi đã đến chùa Bồ Đề, tất cả dừng trước cổng rồi thì giống như chúng ta đang trụ ở trạng thái nhất tâm. Tiếp đến chúng ta phải rời luôn trạng thái nhất tâm đó, nghĩa là phải đi qua cổng để vào chùa Bồ Đề thì mới vô được cảnh giới như thực của Thiền Hiện Đại.
Để trình bày phương pháp Thiền Hiện Đại, thầy giới thiệu với các anh chị tư thế ngồi trước. Những tư thế khác thầy sẽ đề cập trong những buổi học tiếp theo ( …phương pháp ngồi…. )
Còn lại, thực tập Thiền trong từng động thái sinh hoạt hàng ngày như:  ăn uống, sinh hoạt, đi, đứng, nằm, ngồi…Các thực nghiệm đó sẽ trợ duyên cho các anh chị dễ đi đến trạng thái nhất tâm trong cuộc sống, thầy sẽ trình bày trong các bài học liên quan sau. Hôm nay, trong bài Tổng Quan Thiền, thầy chỉ khái quát về Thiền Hiện Đại và con đường thể nghiệm phương pháp này để các anh chị làm quen; thực hành để cảm nhận “tợ tướng” trong 15 phút về trạng thái này như thế nào.
Trước khi vào buổi thực hành đầu tiên về Thiền Hiện Đại, thầy xin vạch ra một con đường nho nhỏ. Lẽ ra, để các anh chị thực tập, trải nghiệm tự nhiên có thể tốt hơn; nhưng dẫu sao, lời thầy nói ra, biết đâu có thể định hướng cho các anh chị. Mong các anh chị thẩm thấu được ý, không chấp lời thầy. Nhân duyên là ở các anh chị, thành tựu hay không là ở các anh chị. Thầy chỉ là người cùng các anh chị đi trên con đường này.
Thưa các anh chị, cảnh giới cao nhất của Thiền Hiện Đại là lục căn, lục trần, lục thức vốn không. Không này không phải không đối với có, mà không này là không chấp trước, rỗng lặng, thênh thang của tâm hồn. Không từ đâu sinh ra, không từ đâu mất đi. Ở nơi đâu cũng hiển hiện trạng thái đó, cho dù ở trong sắc cũng rỗng lặng, ở trong không cũng rỗng lặng, ở trong tâm cũng rỗng lặng, ở trong tất cả các tình huống đều là rỗng lặng. Một sự vắng bặt của ý thức suy luận và đối đãi nhị nguyên.
Chìa khóa để mở cửa vào trạng thái này, nơi pháp môn này chỉ có một từ. Đó là Biết. Trong tiếng Hán gọi là Tri. Tất cả con đường và trạng thái tâm về sau, khi các anh chị thực tập Thiền Hiện Đại, đều tập trung vào một chữ Biết. Nếu các anh chị xa rời cái Biết , không sao cả, chúng ta chỉ cần quay trở về với cái Biết mà thôi. Nghĩa là chúng ta biết chúng ta đang là gì, đang làm gì. Vì đây là giai đoạn chúng ta thực tập, khi các anh chị đề khởi Biết, nếu bị ngắt quãng cái Biết thì cũng không sao hết; không khiên cưỡng, không quá lo âu, không quá phiền muộn, chỉ khởi lại cái Biết. Chắc chắn các anh chị sẽ được lợi lạc khi duy trì cái Biết này để đi thẳng trên con đường thể nghiệm tâm trong pháp môn Thiền Hiện Đại.
                                            Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

THỰC TẬP THIỀN HIỆN ĐẠI
Bây giờ là thời thực tập trong vòng 15 phút. Trước khi các anh chị thực tập, thầy xin nói thế này: các anh chị đang ngồi đúng không? Chúng ta thực tập về Thiền tọa, thì các anh chị có thể ngồi bất kỳ trạng thái nào mà mình cảm thấy khỏe nhất, vui vẻ nhất, an lạc nhất, ngồi sao cũng được. Nhưng trong một chừng mực mà tâm và thân có thể cho phép mình làm được, thì các anh chị có thể ngồi với các tư thế giúp cho chúng ta dễ vào trạng thái an lạc nội tại.
Tư thế kiết già, kim cang tọa, hay còn gọi hoa sen tọa. Kiết già có 2 tư thế: Chân phải để trên chân trái tréo nhau thì gọi là kiết già cát tường. Ngược lại, trong trường hợp chân trái để trên chân phải, cũng được gọi là kim cang tọa hay hoa sen tọa, nhưng gọi đó là kiết già hàng ma (kiết già hàng phục nghiệp chướng).
Tại sao lại có tên như thế này? Khi chúng ta ngồi chân phải để lên chân trái thì thuận theo nhịp đập thế gian, đó là trạng thái hòa hợp nên gọi kiết già cát tường. Ngược lại, nghĩa là các anh chị đi ngược lại nhịp đập thế gian, nên phải hàng phục chướng duyên của mình nên gọi là kiết già hàng ma.
 Tư thế nào cũng tốt. Để dễ hiễu, thầy giải thích thêm cho anh chị thế này: Tư thế kiết già cát tường là hợp thể, tư thế kiết già hàng ma là hiển dụng. Tư thế kiết già cát tường là đưa tâm hồn chúng ta nhất thời tương ưng tĩnh lặng. Còn tư thế kiết già hàng ma là khởi từ bi mà hàng phục ma tâm.
Đức Quán Âm Bồ Tát luôn ngồi xếp bằng ở tư thế kiết già hàng ma. Trong khi Đức Đại Trí và đức Phổ Hiền đều ngồi tư thế kiết già cát tường. Đây là những hạnh nguyện đặc trưng của chư vị Thánh giả mà sau này khi các anh chị vào chùa chiền sẽ thấy được điều này.
Trong trường hợp ngồi tư thế kiết già không được vì không thích hợp với cơ thể vật lý chúng ta, thì cũng không sao hết, các anh chị có thể ngồi tư thế bán già. Toàn chân phải để trên chân trái (bán già cát tường) hay toàn chân trái để trên chân phải (bán già hàng ma). Đây là 4 động tác ngồi tĩnh tọa trợ duyên rất nhiều cho thân tâm của anh chị dễ tĩnh lặng.
Thầy giới thiệu thêm phương pháp an tọa khác, một tư thế ngồi tĩnh tâm của người Nhật Bản. Họ có thể ngồi trên 2 bàn chân với 2 mu bàn chân duỗi ra áp sát đất. Hai gót chân chạm vào chỗ lõm giữa hai bắp đùi và mông để giữ lại khí lực.
Ở Myanma, và một vài nơi tại Thái Lan…người ta ngồi xếp bằng bình thường, hai chân chéo nhau áp sát đất.
 Tư thế của bàn tay: Nếu chân phải để trên chân trái thì tay phải ta đặt lên tay trái, hai ngón cái giao nhau. Lưng thẳng, không quá ngửa ra ngoài sau, cũng không quá nghiêng về phía trước, nghiêng tới nghiêng lui mà cảm thấy ở trạng thái vừa với cơ thể mình nhất thì các anh chị trụ lại. Mắt nhắm hay mở vừa phải để dễ chịu với cảnh. Thả lỏng hết tâm tư để cơ thể ở trang thái tự nhiên. Các anh chị hãy chọn cho mình một khoảng không để ngồi, không xúc chạm người bên cạnh.
Thở vô các anh chị nhớ phải Thở bằng mũi. Thở ra phải bằng miệng và mũi trong trạng thái rất nhẹ, không gấp gáp, không miễn cưỡng. Không nên thở ra chỉ bằng mũi không, vì dễ áp lực. Không cong lưỡi lên giữa của vòm hàm trên. Miệng để ở trạng thái tự nhiên. Tại sao chúng ta không cong lưỡi lên? Vì chúng ta đang Thiền Hiện Đại, cốt yếu là thân tâm tự nhiên, không phải luyện khí.
Thở vô dài chúng ta biết chúng ta thở vô dài (cảm nhận bao nhiêu là sự trong sáng an lạc trút vào cơ thể chúng ta). Thở ra dài chúng ta biết chúng ta thở ra dài ( cảm nhận bao nhiêu là sự cấu nhiễm lo âu trút ra theo hơi thở). Thở vào thở ra vài lần như vậy, chúng ta trở lại thở nhẹ bình thường. Tri nhận (Biết) như thật trên hơi thở. Đề khởi cái Biết nương theo hơi thở. Không gấp gáp, không bám víu, nhẹ nhàng. Vạn vật bên ngoài xao động, thân tâm xao động đều không đáng ngại. Hãy tri nhận cái biết chân thật, chúng ta đang làm gì… Đây là bài học đầu tiên.